1. Khái niệm chiến lược theo quan điểm hiện đại
Henry Mintzberg là đại diện tiêu biểu cho quan điểm hiện đại về khái niệm chiến lược. Theo nghiên cứu của ông, nội dung khái niệm chiến lược có thể bao gồm 5 yếu tố (5P) là: kế hoạch (Plan); mưu lược (Ploy); phương thức hành động (Pattern), định vị (Position) và triển vọng (Perspective).
– Chiến lược được hiểu là kế hoạch khi nó dùng để chỉ một hướng dẫn hoặc tập hợp các hướng dẫn cho quá trình diễn biến các hành động một cách có ý thức, được dự định trước, phù hợp với hoàn cảnh.
– Chiến lược là mưu lược (sách lược): là quan điểm xuất phát từ nguồn gốc quân sự của khái niệm chiến lược bao gồm nhưng biện pháp hành động để đối phó với kẻ thù. Cách hiểu chiến lược là kế hoạch thường mang ý nghĩa dài hạn hơn, còn cách hiểu chiến lược là mưu lược thường mang ý nghĩa ngắn hạn hơn, tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo một mục tiêu dài hạn xuyên suốt.
– Chiến lược là phương thức: Mintzberg cho rằng chiến lược là sự nhất quán trong hành động dù có dụng ý hay không.
– Chiến lược là định vị: Với cách định nghĩa thứ 4, chiến lược một phương tiện để định vị một tổ chức trong môi trường của nó, gắn mối quan hệ giữa tổ chức và môi trường, giữa bên trong với bên ngoài.
– Chiến lược là triển vọng : Cách nhìn thứ 5 này lại được tiến hành từ bên trong của tổ chức. Nội hàm của nó bao gồm không chỉ chọn lựa định vị, mà còn là cách thức ăn sâu vào nhận thức, hay nói cách khác, nó xác định mong muốn phát triển từ bên trong tổ chức.
Cách định nghĩa thứ 5 gợi ý rằng tất cả các chiến lược như đã được định nghĩa ở trên đều tồn tại dưới dạng 1 khái niệm hay ý tưởng. Do vậy, không ai đã từng nhìn thấy chiến lược hoặc nắm được nó. Chính vì vậy, điểm quan trọng là chiến lược cần được chia sẻ. Chiến lược là một triển vọng được chia sẻ giữa các thành viên của tổ chức, thông qua sự chú ý của họ và/hoặc chuyển tải thành hành động của họ.
Xuyên suốt những cách hiểu khác nhau về chiến lược có thể thấy rằng:
– Chiến lược là khái niệm thuộc khoa học quản lý, chỉ toàn bộ quá trình hình thành tư tưởng, quan điểm, định hướng; xây dựng kế hoạch, biện pháp; kết hợp các nguồn lực cần thiết và thực hiện chúng một cách thích hợp, nhất quán trong một thời hạn tương đối dài để thay đổi cục diện công việc hoặc chủ thể từ trạng thái hiện tại đến trạng thái mong muốn. Quá trình này thường được thiết kế trong một văn bản, được gọi là văn bản chiến lược (tuy nhiên, không phải là luôn luôn như vậy, có nghĩa là không phải khi nào thì một văn bản chiến lược cũng là cần thiết, và một tổ chức vẫn hoạt động có chiến lược ngay cả khi nó không có một văn bản chiến lược nào cả).
– Chiến lược là tinh thần cơ bản của đường lối phát triển do con người định ra. Phạm vi bao quát và nội dung chủ yếu (hay trọng tâm) của chiến lược được thể hiện thông qua mục tiêu, hệ thống các quan điểm, biện pháp cơ bản về phát triển ở tầm cao, tầm tổng thể, dài hạn đối với sự phát triển của một đối tượng (hay của một hệ thống). Nó chỉ đạo hành động thống nhất của một cộng đồng hay một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nhằm đạt tới mục tiêu cao nhất, lớn nhất, tổng quát nhất đã xác định.
– Chiến lược được đề ra đối với một đối tượng cụ thể chứ không có chiến lược chung chung. Chẳng hạn mỗi quốc gia nên và cần có một chiến lược về phát triển của đất nước mình; mỗi doanh nghiệp ngành vùng có chiến lược phát triển riêng. Đối tượng của chiến lược có thể là một quốc gia, một ngành, một lãnh thổ, một doanh nghiệp… Đối tượng quy định tính chất, phạm vi và nội dung của chiến lược. Chiến lược của cấp vi mô phải tuân thủ chiến lược phát triển của cấp vĩ mô.
– Về bản chất, mọi chiến lược nói chung đều là phương tiện để tạo ra thay đổi, tức là nó gồm những gì nằm trong khoảng giữa ý đồ (mục đích và kết quả), hoặc giữa khả năng dự kiến và hiện thực đạt được. Kết quả hay hiện thực mới được tạo ra này phải chứa đựng những thay đổi nhất định từ bên trong. Khuynh hướng và chức năng chủ đạo của mọi chiến lược là phát triển.
2. Những đặc tính cơ bản của chiến lược
Chiến lược phát triển cung cấp tầm nhìn tổng quát, mục tiêu phát triển một công ty, một ngành, một quốc gia và tổng hợp các chính sách để thực hiện các mục tiêu đó. Đó là một phương tiện để quản lý, theo đuổi những lựa chọn để đảm bảo đối tượng chiến lược có khả năng cạnh tranh hướng đến phát triển. Chiến lược phát triển thường có 2 chức năng cơ bản là: chức năng phát triển và chức năng quản lý phát triển.
– Tính hệ thống: Chiến lược phát triển phải có tính hệ thống và đã mang tính hệ thống thì nó phải có tính ổn định tương đối. Theo nguyên tắc động học, nếu tác động vào một hoặc một vài phân hệ thì sẽ ảnh hưởng tới tất cả các phân hệ khác còn lại. Vì thế chỉ xem xét một số phân hệ mà bỏ qua các phân hệ khác sẽ có thể làm cho hệ thống rối loạn hơn là làm cho hệ thống phát triển. Đó là vấn đề mà các chiến lược gia cần chú ý. Trên nguyên tắc hệ thống, chiến lược phát triển đề cập đến những vấn đề toàn cục, những vấn đề mang ý nghĩa điểm huyệt, có sức gây công phá lớn đối với sự phát triển của toàn bộ hệ thống.
– Tính bao quát: Chiến lược phát triển bao quát những vấn đề dài hạn, vừa đề cập thỏa đáng những vấn đề ngắn hạn có tính quyết định (vì khi những vấn đề ngắn hạn được giải quyết sẽ tạo nền tảng vật chất để thực hiện những vấn đề dài hạn), vừa khuếch trương quy mô lớn vừa coi trọng quy mô vừa và nhỏ.
– Tính chọn lựa: Thời kỳ chiến lược thường là khoảng thời gian 5 năm, 10 năm, tuy không phải là ngắn nhưng cũng không đủ để làm tất cả mọi việc. Trong khi nguồn lực phát triển là có hạn và luôn biến đổi. Các yếu tố huy động cho phát triển ở mỗi thời kỳ sẽ thay đổi. Do đó, chiến lược phát triển phải chọn lựa những vấn đề then chốt để tìm cách giải quyết.
– Tính linh hoạt và mềm dẻo: Chiến lược phát triển phải có khả năng điều chỉnh nhanh, thích ứng rộng, phù hợp với hoàn cảnh.
– Tính dài hạn: Những vấn đề lớn và phức tạp có ý nghĩa chiến lược thường cần nhiều thời gian để hoàn thành. Tuy nhiên, trong chiến lược có vấn đề sẽ được giải quyết trong thời gian ngắn, cũng có nhiều vấn đề phải được giải quyết trong thời gian dài.
– Tính thời đại: Đây là vấn đề hết sức quan trọng. Tính thời đại biểu hiện ở tính hiện đại, tính liên kết, không chỉ và không quá bó hẹp bởi ranh giới hành chính của một quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế sâu rộng, một quốc gia phải cùng các quốc gia khác phát triển. Những thành tựu của nhân loại phải được phát huy và những thất bại của thế giới phải được rút kinh nghiệm và tránh.
– Tính cụ thể và tính lượng hóa: Tính cụ thể trước hết thể hiện ở việc mục tiêu chiến lược phải cụ thể các vấn đề trọng yếu mà chiến lược đề cập (hay những nhiệm vụ chiến lược phải làm), các bước thực hiện và tổ chức thực hiện cũng phải được thể hiện một cách cụ thể. Tính lượng hóa được thể hiện ở việc làm rõ mục tiêu tổng quát cần tính toán dự báo các chỉ tiêu cụ thể. Các chỉ tiêu cụ thể phải được tính toán và thể hiện bằng con số với biên độ nhất định nhằm cụ thể hóa mục tiêu tổng quát của chiến lược.
Như vậy, Chiến lược phát triển phải là một văn kiện chứa đựng tinh thần cơ bản của đường lối phát triển (một công ty, một ngành, một quốc gia) cho một thời kỳ dài hạn, nó phản ánh chủ đề ý tưởng tổng quát, cơ bản về phát triển; nó bao quát mục tiêu, hệ thống các quan điểm chỉ đạo, cách thức và phương tiện biến mục tiêu quan điểm ấy thành hiện thực về phát triển một công ty, một ngành, một quốc gia trong thời kỳ chiến lược.
3. Hoạch định chiến lược
Đạo luật về hoạch định và giám sát thực hiện chiến lược của Bang California – Mỹ năm 1994 có viết: “Lập kế hoạch chiến lược là một điều kiện tiên quyết để đánh giá hiệu quả hoạt động và hiệu suất ngân sách”. Việc lập kế hoạch chiến lược được xác định là một công việc cần thiết bởi vì nó giúp cho các cơ quan điều hành của Chính phủ có thể xác định được những công việc mà cơ quan này có thể làm để giải quyết những yêu cầu, kỳ vọng từ dân chúng, trong bối cảnh mà những thách thức để quản lý ngày càng trở nên phức tạp, và các nguồn lực bị hạn chế. Kế hoạch chiến lược được hình thành dựa trên phương pháp tiếp cận dài hạn, nhưng vẫn có thể sử dụng để đánh giá và cập nhật thường xuyên để kiểm tra tiến độ và đánh giá lại giá trị của kế hoạch dựa trên các vấn đề chiến lược được phát hiện mới trong nội bộ hay từ bên ngoài, bởi vậy, nó vẫn đảm bảo và thậm chí gia tăng khả năng thích ứng của cơ quan quản lý trước những thay đổi của môi trường. Hoạch định chiến lược là một phần của quản lý chất lượng. Chức năng định hướng phát triển và quản lý phát triển cũng giúp cho các nhà điều hành trở thành người quản lý tương lai chứ không phải là bị chi phối bởi tương lai.
Hoạch định chiến lược không phải là lập kế hoạch dài hạn, hay nói cách khác nó không có mối liên thông nào với một nền kinh tế kế hoạch như chúng ta đã thấy trước đây. Hoạch định chiến lược phụ thuộc rất nhiều vào việc xác định và giải quyết các vấn đề, trong khi kế hoạch dài hạn tập trung nhiều hơn vào qui định cụ thể mục tiêu và chuyển chúng thành chương trình hành động và ngân sách hiện tại. Hoạch định chiến lược cũng nhấn mạnh việc đánh giá môi trường bên trong và bên ngoài nhiều hơn so với kế hoạch dài hạn. Chiến lược thể hiện sự thay đổi về chất trong chỉ đạo, bao gồm một phạm vi rộng hơn, gồm cả các kế hoạch dự phòng, trong khi kế hoạch dài hạn thường chỉ là ngoại suy tuyến tính của hiện tại (xem hình 1).
3.1. Các thành viên tham gia quá trình hoạch định chiến lược
Lập kế hoạch chiến lược là nỗ lực của một nhóm. Nó liên quan đến tất cả các cấp và các đơn vị chức năng, từ người quản lý cao nhất đến các tầng quản lý cấp trung và giám sát và nhân viên. Quy mô của nhóm nghiên cứu sẽ thay đổi phụ thuộc vào độ phức tạp của tổ chức (quốc gia, một ngành hay một cơ quan trong ngành), tuy nhiên thông thường một nhóm hay một ủy ban soạn thảo chiến lược có thể bao gồm những thành viên sau:
– Người đứng đầu tổ chức;
– Thành viên hội đồng quản trị hay những người lãnh đạo cấp cao của tổ chức;
– Đội quản trị thực hiện bao gồm các nhà quản lý cao cấp và các nhân viên khác;
– Các nhà quản lý cấp trung, giám đốc các chương trình, các thành viên giám sát và các nhân viên khác;
– Hội đồng chất lượng, nếu được thành lập, có thể đảm bảo sự phối hợp của quá trình kế hoạch chiến lược với nỗ lực cải thiện chất lượng của cơ quan.
– Bộ phận quản lý tài chính;
– Bộ phận quản lý tài sản ;
– Bộ phận quản lý công nghệ thông tin;
– Người điều hành hay là điều phối viên của quá trình hoạch định chiến lược.
3.2. Nội dung của chiến lược
Thông thường việc lập kế hoạch chiến lược yêu cầu trả lời 4 câu hỏi, và các thành phần của một bản kế hoạch chiến lược cũng tương ứng với 4 câu hỏi này.
– Chúng ta đang ở đâu? Trước khi một tổ chức có thể xây dựng một kế hoạch cho một sự thay đổi, đầu tiên họ phải xác định nơi họ đang đứng và những cơ hội cho sự thay đổi đó. Quá trình này bao gồm: việc đánh giá các vấn đề, các tiềm năng từ bên trong tổ chức hay nói cách khác là xác định điểm mạnh và điểm yếu; phân tích các yếu tố từ bên ngoài có liên quan, ảnh hưởng đến việc đạt được sứ mệnh, mục tiêu của tổ chức – hay nói cách khác là xác định cơ hội và thách thức. Trong quá trình hoạch định chiến lược, một cơ quan cũng nên tham khảo ý kiến từ cơ quan lập pháp và xem xét các quan điểm và đề xuất từ các đơn vị và các bên liên quan khác có khả năng bị ảnh hưởng hoặc quan tâm đến chiến lược của mình.
– Chúng ta muốn đi đến đâu? Kế hoạch chiến lược cần xác định được: tầm nhìn- một khái niệm, hay một hình ảnh hấp dẫn mô tả tương lai mong muốn hướng đến của tổ chức; Mục tiêu là kết quả cuối cùng mong muốn – thường ít nhất là sau 3 năm; Mục tiêu cụ thể để có thể đo lường cho các mục tiêu tổng quát.
– Làm sao để chúng ta đạt được các mục tiêu đó? Đưa ra các kế hoạch hành động, mô tả chi tiết những sách lược quan trọng để thực hiện từng mục tiêu. Xác định và phân bổ các nguồn lực cần thiết để thực hiện chiến lược, bao gồm cả kinh phí vốn, trong khuôn khổ ưu tiên.
– Làm thế nào để chúng tôi đo lường quá trình thực hiện chiến lược? Bao gồm các phương pháp được sử dụng để đo lường kết quả và đảm bảo trách nhiệm giải trình, giám sát và theo dõi thực hiện chiến lược.
Không có một khuôn khổ xác định nào có thể áp dụng cho quá trình hoạch định chiến lược của mọi cơ quan tổ chức. Các cơ quan nên thích ứng quá trình hoạch định chiến lược với nhu cầu quản lý và cấu trúc tổ chức để thực thi một quá trình hoạch định phù hợp.
3.3. Thời hạn của chiến lược
Nhìn chung các chiến lược hiện nay có thường có thời hạn thực hiện là 5 năm hoặc ít hơn do sự giới hạn về khả năng dự báo những biến động và tác động trong dài hạn. Tuy nhiên với những chiến lược cần thiết có sự tác động lâu dài do bản chất của tổ chức, ngành, lĩnh vực thì có thể kéo dài hơn 5 năm.
3.4. Truyền thông chiến lược
Một kế hoạch chiến lược dù hoàn hảo cũng sẽ có ít giá trị nếu như nó không được hiểu và chấp nhận rộng rãi. Ngược lại nó cần phải được thông báo rộng rãi cho tất các các tổ chức, các cấp ngành, bao gồm cả các thành viên bên trong tổ chức và toàn xã hội. Trong nội bộ, các nhà quản lý và nhân viên cần phải có một sự hiểu biết rõ ràng về kế hoạch chiến lược và vai trò của họ trong đó. Nó là cơ sở để hình thành những hành động hàng ngày một cách nhất quán trong suốt quá trình hoạt động của cơ quan. Đối với bên ngoài, kế hoạch chiến lược cũng cần được thông báo cho các cá nhân và tổ chức có quan tâm, hoặc ảnh hưởng (ví dụ như cơ quan lập pháp, chính quyền địa phương, các nhóm lợi ích và công cộng). Việc này sẽ giúp nâng cao nhận thức và hỗ trợ cho quá trình thực hiện chiến lược.
Theo Sbv.gov.vn – Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam.